Đá chứa mangan



Giới thiệu Đề tài NCKH “Đá chứa mangan”
Tác giả: Trần Nghi



Trầm tích mangan là loại đá khó xác định bằng phương pháp thạch học (lát mỏng). Vì vậy, đóng vai trò chính trong việc xác định quặng mangan chủ yếu là phân tích nhiệt, hoá học, đôi khi chỉ có phân tích rơnghen mới có thể xác định chính xác từng loại khoáng vật mangan. Quặng mangan chủ yếu được sử dụng trong công nghiệp luyện kim đen để chế tạo các loại hợp kim, thép đặc biệt. Thành phần có hại trong quặng mangan là photpho và lưu huỳnh.
Trong tự nhiên, trầm tích mangan ít gặp hơn trầm tích sắt, nhưng lại rất giống sắt về nguồn gốc và điều kiện thành tạo. Trầm tích mangan thường phân tán ở dạng bao thể nhỏ, chỉ trong những trường hợp đặc biệt mới tập trung tạo thành mỏ.
Thành phần khoáng vật của quặng mangan chủ yếu là oxyt, hydroxyt (manganit, pirolusit, psilomelan...), carbonat,  (rodocrozit,  mangano-canxit),  đôi  khi  gặp  silicat  mangan.  Quặng  oxyt mangan thường có màu đen, vết vỡ dạng đất, cấu tạo kết hạch, trứng cá, pizolit, tuyến nhũ, ... Quặng carbonat mangan thường có màu xám lục, hồng, phân lớp mỏng, rất giống đá vôi, khác với đá vôi do rodocrozit có tỷ trọng lớn, cứng, hầu như không sủi bọt trong HCl.
Ngoài khoáng vật mangan, trong quặng mangan còn chứa nhiều khoáng vật hỗn hợp khác như: canxit, siderit, sét glauconit, mảnh vụn cơ học, đôi khi có cả di tích sinh vật (gai Hải miên, Tảo cát, Trùng tia, ...)
Cũng như sắt, mangan được giải phóng trong quá trình phong hoá hoá học các đá kết tinh giàu mangan, nó cũng là một nguyên tố khó bị hoà tan và độ di chuyển kém. Vì vậy, mangan thường nằm trong vỏ phong hoá, nó được di chuyển dưới dạng dung dịch keo,  dung dịch thật, hay vụn cơ học. Tùy theo phương thức di chuyển, nếu ở dạng dung dịch thật thì nó được lắng đọng do sự thay đổi độ pH, Eh của môi trường, nếu ở dạng keo thì kém vững bền hơn và dễ bị ngưng keo do sự thay đổi nhiệt độ hoặc độ muối của môitrường. Ngoài ra, sinh vật (nhất là vi khuẩn) đôi khi cũng có tác dụng rất lớn đến sự thành tạo trầm tích mangan.
Cũng như trầm tích sắt và silit, trầm tích Mn được thành tạo chủ yếu trong đáy biển sâu dạng tuyến hẹp có tuổi Paleozoi. Trong trầm tích hiện tại Mn chỉ gặp ở dạng "nodule" ở đáy đại dương. Có lẽ nguồn Mn quá bão hoà được cung cấp ở biển sâu chủ yếu liên quan đến hoạt động phun trào dưới nước.
Ở Việt Nam, trầm tích mangan ít phổ biến, hiện nay mới thấy ở Cao Bằng (Tốc Tát, Trà Lĩnh, Trùng Khánh...) các thân quặng mangan thường có dạng thấu kính, dạng vỉa nằm trong trầm tích silit, trầm tích vôi chứa nhiều gai Bọt biển. Hàm lượng mangan trong quặng biến đổi từ 35-50%.
Ngoài ra, ở một số nơi: Yên Cư (Vinh), làng Khao (Nghệ An), Niệm Sơn (Hải Phòng),... cũng thấy vài thân quặng mangan ở dạng vỉa, mỏng nằm trong trầm tích silit sét. Hàm lượng mangan không cao lắm, biến đổi từ 10-25% ……
Mời các bạn đọc tiếp bài viết tại link http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19134

Nhận xét

Bài đăng phổ biến