Các biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/34176
Người
chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách,
chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật ở mỗi quốc gia
quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên.
Điều
1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày
20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới
18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành
niên sớm hơn”.
Ở
Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến
Pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ
luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và một số văn
bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi
của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp
luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể.
Khái
niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Theo Điều 1 Luật Bảo vệ,
Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.
Tóm
lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về mặt
thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi
trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định những
quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên.
Như
vậy, có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát
triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ
pháp lý như người đã thành niên.
Tham
khảo thêm các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến người chưa thành niên gồm:
Công ước về Quyền trẻ em (United Nations Convention on the Rights of the Child)
được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20-11-1989; Quy tắc tiêu chuẩn tối
thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật với người chưa thành niên (United
Nations Standard Minimum Rules for the Administration of Juvenile Justice
/Beijing Rules) ngày 29-11-1985; Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa phạm
pháp ở người chưa thành niên (United Nations Guidelines for the Prevention of
Juvenile delinquency/ Riyadh Guidelines) ngày 14-12-1990. Theo quan niệm quốc tế
thì trẻ em (Child) là người dưới 18 tuổi, người chưa thành niên (Juvenile) là
người từ 15 đến 18 tuổi, thanh niên (Youth) là người từ 15 đến 24 tuổi, người
trẻ tuổi (Young persons) bao gồm trẻ em, người chưa thành niên và thanh niên.
Ở
Việt Nam, tuổi kết nạp Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh là từ 10 đến 15 tuổi,
tuổi kết nạp Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là từ 15 đến 30 tuổi. Trong
tuổi Đoàn gọi là thanh niên, trong tuổi Đội là thiếu niên, dưới tuổi Đội gọi là
nhi đồng. Ở mỗi lứa tuổi, người chưa thành niên được Nhà nước và xã hội quan
tâm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục để phát triển tốt nhất về thể chất và nhân
cách, trở thành người khỏe mạnh, có ích cho xã hội.
Khái
niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra
Điều
12 Bộ luật Hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tuổi chịu
trách nhiệm hình sự:
“1.
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ
16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Như
vậy, người chưa thành niên phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự có thể là:
-
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, phạm tội
đặc biệt nghiêm trọng.
-
Nguời từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm một tội được quy định trong Bộ luật
Hình sự.
Đối
với người chưa thành niên, việc xác định một trường hợp cụ thể người có hành vi
phạm tội có trở thành tội phạm hay không còn căn cứ vào nguyên tắc được quy định
tại Điều 69 Bộ luật Hình sự:
“1.
Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa
chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Trong
mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành
niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ
về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện
gây ra tội phạm.
2.
Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người
đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều
tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
3.
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng
hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn
cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu
của việc phòng ngừa tội phạm.
4.
Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội, thì Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được
quy định tại Điều 70 của Bộ luật này.” …
Như
vậy, tội phạm do người chưa thành niên gây ra chỉ xuất hiện (phát sinh) khi có
đầy đủ 3 điều kiện sau đây:
Một
là, có hành vi phạm tội do người chưa thành niên thực hiện.
Hai
là, người thực hiện hành vi phạm tội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tương ứng
với loại tội phạm và lỗi gây ra tội phạm
Ba
là, người đó thực tế phải chịu trách nhiệm hình sự sau khi các cơ quan có thẩm
quyền cân nhắc tính cần thiết phải xử lý bằng hình sự mà không thể áp dụng các
biện pháp tư pháp hoặc các biện pháp khác để quản lý, giáo dục và phòng ngừa tội
phạm.
Những
điều kiện trên cũng cho thấy tầm quan trọng trong việc xác định tội phạm do người
chưa thành niên gây ra. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra bao giờ cũng gắn
liền với một người chưa thành niên có hành vi phạm tội cụ thể nhưng không phải
mọi trường hợp một người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội đều trở
thành tội phạm.
Tội
phạm do người chưa thành niên gây ra có những đặc điểm riêng so với tội phạm do
người đã thành niên gây ra. Tội phạm do người đã thành niên gây ra là những
hành vi nguy hiểm cho xã hội có đủ dấu hiệu tội phạm và đủ yếu tố cấu thành tội
phạm. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra ngoài những dấu hiệu và yếu tố
pháp lý còn được xác định bằng sự nhận định, cân nhắc cụ thể của cơ quan có thẩm
quyền khi quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội.
Theo
một số nghiên cứu khoa học, việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình
phạt đối với người chưa thành niên phạm tội được xem là “cần thiết” khi hội đủ
3 điều kiện sau đây
-
Người chưa thành niên phạm tội có nhân thân xấu.
-
Tội phạm đã được thực hiện có tính chất nghiêm trọng.
-
Những biện pháp giáo dục, phòng ngừa như giáo dục tại xã, phường, đưa vào trường
giáo dưỡng không có hiệu quả để cải tạo người chưa thành niên phạm tội mà cần
áp dụng hình phạt đối với họ.
Từ
những phân tích trên có thể khái niệm: Tội phạm do người chưa thành niên gây ra
là hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện bởi người dưới 18 tuổi và người
đó phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với hành vi và lỗi của mình theo
phán xét của cơ quan tiến hành tố tụng...
Khái
niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra không đồng nhất với khái niệm người
chưa thành niên phạm tội nhưng hai khái niệm đó có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội là khái niệm dùng để chỉ một dạng
chủ thể đặc biệt (người chưa thành niên) thực hiện hành vi phạm tội, còn khái
niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra là khái niệm dùng để chỉ tội phạm
đã được thực hiện bởi một dạng chủ thể đặc biệt (người chưa thành niên).
Mời
các bạn quan tâm đến đề tài tìm hiểu luận văn cùng chủ đề “Các biện pháp giám
sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” của tác
giả Trần Hồng Nhung tại đường link: http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/34176
Nhận xét
Đăng nhận xét