Biểu tượng "Vạn" của Phật giáo
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19071
1. Nguồn gốc chữ Vạn
Hình
chữ Vạn vốn là biểu tượng biểu thị tính chất tốt lành của dân tộc Ấn Độ cổ đại
nói riêng và của cả chủng người Aryan nói chung. Vì vậy, không chỉ riêng người Ấn
Độ mà cả các dân tộc Ba Tư, Hy Lạp cũng xem nó là biểu tượng của mình. Đó là một
hình vẽ có từ thời xa xưa, thời tồn tại tín ngưỡng bái vật giáo. Trong tư tưởng
của người phương Đông, chữ Vạn tượng trưng cho mặt trời và tia lửa, biểu ý tập
trung rực rỡ sự kiết tường.
Chính
bởi ý nghĩa phổ biến của chữ Vạn là biểu tượng của sự kiết tường, thanh tịnh và
viên mãn, nên nhiều tôn giáo cổ đại của Ấn Độ như là Bà-la-môn giáo, Kỳ-na
giáo… cũng đều sử dụng biểu tượng này. Có nghĩa là trước khi Phật giáo ra đời
thì đã có sự hiện hữu của biểu tượng này.
Những
tín đồ Bà-la-môn giáo xem biểu tượng chữ Vạn là chòm lông xoáy ở trước ngực của
thần Vishnu và Krishna; là một trong những tướng tốt của các vị thần. Theo công
trình nghiên cứu của Tiến sĩ Quang Đảo Đốc ở Trường Đại học Quốc Sĩ Quán Nhật Bản
thì chữ Vạn được người Bà-la- môn giáo ghi chép từ thế kỷ thứ VIII trước Tây lịch,
cho là thụy tướng lông xoắn trước ngực thần Vishnu. Đến thế kỷ thứ III trước
Tây lịch thì kinh Phật mới nhắc đến.
Như
ta đã biết, dân tộc Ấn Độ có truyền thống văn hóa thờ cúng con bò, vì thế mà họ
cho rằng biểu tượng Vạn cũng là tướng lông xoắn ốc trên đầu bò. Và, biểu tượng
này cũng được xem là một trong sáu tướng đại nhân về sau mới trở thành một
trong ba mươi hai tướng đại nhân
Một
nhà sưu tầm cổ vật là James Churchward cho rằng, chữ Vạn không là chỉ biểu tượng
của riêng Phật giáo hay Ấn giáo mà là biểu tượng chung của toàn thể nhân loại
trên khắp thế giới. Nó là những ký hiệu tượng hình được ghi trên các linh bài bằng
đất thô có độ tuổi hàng vạn năm, tìm được ở Ấn Độ, được cất giấu trong các ngôi
đền xưa.
Ông
cho rằng chữ Vạn chỉ là biến thể của chữ thập (+) tượng trưng cho“Tứ đại Nguyên
động lực” (nước, gió, lửa, sấm sét). Chữ thập và chữ Vạn cũng như thạch trụ là
những biểu tượng có tính chất tôn giáo, được tôn thờ từ lục địa Mu (Continent
of Mu), được truyền sang bờ Tây Thái Bình Dương, Népal, Ấn Độ, sang Ba Tư, tới
Lưỡng Hà, Ai Cập, Hy Lạp…
Người
ở lục địa Mu thờ Mặt trời nên tất cả các dân tộc nào trên thế giới thờ Mặt trời
ít nhiều chịu ảnh hưởng của tôn giáo nguyên thủy của lục địa này. Về hướng xoay
của chữ Vạn xảy ra từ lúc nào, ông cũng không hiểu rõ, chỉ biết trên hoa văn một
lọ chum đựng hài cốt tìm được ở Ý có niên đại vào thời đồ đồng đã thấy cả hai
chữ Vạn ngược chiều nhau2.
Nói
chung, các luận thuyết về chữ Vạn đều chưa thống nhất với nhau về nguồn gốc của
nó, là của dân tộc nào hay của tôn giáo nào. Do vậy, nguồn gốc đích thực của chữ
Vạn vẫn còn là câu hỏi đặt ra cho những nhà nghiên cứu khoa học nào quan tâm.
2. Ý nghĩa của biểu tượng Vạn
Chữ
Vạn nguyên tiếng Phạn là Swastika được phiên âm là “Thất-lợi-bạt-tha” và được dịch
nghĩa là “cát tường hải vân” (vầng mây lành trên biển) hay “cát tường hỷ triền”(vòng
xoay tốt lành). Theo quan niệm của người Ấn Độ, phàm những ai có chân mạng trở
thành những bậc Chuyển luân Thánh vương, Phạm thiên vương và các bậc Hiền nhân
có thể xoay chuyển càn khôn mang lại hạnh phúc cho thiên hạ đều có 32 tướng tốt
ngay khi còn tấm bé, không phải đợi đến khi làm được đế vương mới có 32 tướng hảo.
Có lẽ xuất phát từ quan niệm này mà người Ấn Độ có tục xem tướng cho trẻ vào những
ngày đầu đời, để đoán định vận mệnh tương lai cho bé.
Đức
Phật là Thánh vương trong các Pháp, đương nhiên cũng có 32 tướng tốt. Kinh Trường
A-hàm, quyển thứ nhất, viết rằng chữ Vạn là tướng đại nhân, nằm trước ngực của
Đức Phật. Còn trong Tát Giá Ni Kiền Tử Sở Thuyết Kinh, quyển 6, nói đó là tướng
tốt thứ tám mươi của Phật Thích-ca. Kinh Thập Địa Luận, quyển 12, nói Bồ-tát
Thích- ca lúc chưa thành Phật, trước ngực đã có tướng chữ Vạn công đức trang
nghiêm kim cương. Phương Quảng Đại Trang Nghiêm kinh, quyển 3, nói rằng tóc của
Đức Phật cũng có năm tướng chữ Vạn.
Theo
Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp S, quyển 29, thì ở giữa hông của Phật cũng có tướng chữ Vạn.
Còn Kinh Đại Bát Nhã, quyển 381, có nói tay, chân và trước ngực của Đức Phật đều
có tướng kiết tường hỷ toàn biểu thị công đức của Phật3. Ngoài ra, trong bản
Kinh Hoa Nghiêm tân dịch có nhiều chỗ nói về tướng chữ Vạn; kinh viết: “Ngực của
Đức Như Lai có tướng bậc đại nhân, hình dáng như chữ Vạn, gọi là “cát tường hải
vân” (đám mây lành trên biển). Như vậy, tất cả các kinh trên đều nói rằng chữ Vạn
không phải là văn tự mà là biểu tượng chỉ sự kiết tường, biểu trưng cho công đức
vô lượng, lòng từ bi vô hạn và trí tuệ vô biên của Đức Phật.
Từ
điển Danh từ Phật học Trung Quốc (A Dictionary of Chinese Buddhist terms,
William Edward Soothill, Lander, 1937, trang 203, 412) cũng nói: Chữ srivatsa
chỉ cho chòm lông xoắn ốc trên ngực của thần Visnu hay biểu hiện của thần
Visnu, có nghĩa là hải vân, được biểu trưng bằng chữ Vạn. Đồng thời nó là biểu
tượng tốt lành trên dấu chân của Phật và cũng là biểu hiện của bậc Đại nhân đời
xưa.
Qua
những dẫn chứng trên, chúng ta thấy rằng ký hiệu vốn là một loại biểu tượng để
chỉ tướng tốt và vẻ đẹp của Đức Phật
và những vị Thần của đạo Bà-la- môn cũng như những bậc Đại nhân. Đó là ký hiệu
của sự cát tường, chứ không phải là chữ viết, nhưng vì xưa nay chúng ta thường
đọc là chữ Vạn nên lâu ngày đã trở thành thói quen. Phải chăng cách gọi đó trở
nên phổ biến là bắt nguồn từ khi các vị danh tăng như Ngài Cưu-ma- la-thập thời
Diêu Tần và Ngài Tam Tạng Huyền Trang đời Đường đều gọi là chữ Đức.
Đến
thời Bắc Ngụy, Ngài Bồ- đề-lưu-chi cũng gọi là chữ Vạn hàm nghĩa là “Công đức
viên mãn”. Có tính pháp lý nhất cho thói quen này là vào năm Trường Thọ thứ hai
dưới triều Võ Hậu Tắc Thiên (693 Tây lịch) đã ra chiếu chỉ khâm định dấu đọc là
chữ Vạn biểu ý cho sự tập hợp của“vạn đức kiết tường”. Có lẽ từ đó nó đã trở
thành truyền thống trong cách gọi của quảng đại quần chúng ở những nước có tiếp
thu văn hóa Trung Hoa, trong đó có Việt Nam. Không biết bà Võ Hậu căn cứ vào
đâu mà khâm định biểu tượng từ tướng của sự kiết tường trở thành một loại văn tự
– chữ Vạn nhưng vẫn với biểu ý là sự kiết tường. Biết rằng về mặt từ nguyên học
thì chữ Vạn Trung Quốc là con bò cạp; là 10 ngàn hay với nghĩa bóng là rất nhiều,
vô hạn như vạn tuế, vạn sự, vạn đại không liên quan gì đến hình .
3. Chiều xoay của biểu tượng Vạn
Trên
thực tế, chúng ta có thể bắt gặp cả hai dạng chiều xoay của biểu tượng Vạn. Căn
cứ vào cái bóng của chiều chuyển động chữ thập (+) và của nan hoa bánh xe mà
nhiều nhà nghiên cứu thống nhất rằng hình
này là xoay về bên phải, thuận
chiều kim đồng hồ; còn hình này xoay về bên trái, nghịch chiều kim đồng hồ.
Vấn
đề được nhiều người quan tâm và thường xảy ra tranh luận là chiều xoay của tướng
Vạn của Phật giáo, xoay về bên phải đúng hay xoay về bên trái mới đúng. Vấn đề
này thật sự được nói đến, có lẽ, vào thập niên 40 thế kỷ XX, khi mà Đức Quốc xã
ở châu Âu cũng dùng tướng Vạn làm biểu tượng cho chủ nghĩa quân phiệt của mình.
Người
Ấn Độ thời cổ đại từng phân biệt rõ ràng chữ Vạn xoay phải và xoay trái khác
nhau, như xoay về bên trái để biểu thị các vị nam thần và xoay về bên phải biểu
thị các vị nữ thần. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni là bậc đại trượng phu, theo chúng
tôi thì chắc chắn rằng người Ấn Độ phải sử dụng tướng Vạn xoay về bên trái, nghịch
chiều kim đồng hồ để biểu thị thụy tướng cho Đức Phật. Vì vậy, tướng Vạn của Phật
giáo phải là như vầy mới đúng.
Ở
Trung Hoa, biểu tượng Vạn được sử dụng không nhiều và có khuynh hướng thiên về
chiều nghịch kim đồng hồ. Trong cuốn sưu tập tranh Tượng Phật Trung Quốc do Lý
Lược Tam và Huỳnh Ngọc Trảng biên soạn5, tìm được chín tượng Phật có hình chữ Vạn,
trong đó có sáu chữ Vạn và ba chữ Vạn
Ở
Việt Nam, chúng tôi khẳng định Phật giáo Việt Nam sử dụng biểu tượng Vạn này mới
đích thực phù hợp với quy luật tự nhiên. Bởi vì, chuyển động ngược chiều kim đồng
hồ là chiều vận động của tự nhiên, đó là chiều chuyển động đi từ tâm ra mà ta
có thể dễ dàng bắt gặp từ vật nhỏ như dạng xoáy hoa tay, xoáy tóc trên đầu, đường
xoáy trên vỏ ốc… cho đến lớn như chiều xoáy của bão, chiều tự chuyển động của
trái đất.
Trong
các nghi thức tế thần của các dân tộc ở Đông Nam Á cũng như chiều chuyển động của
muôn loài trên mặt trống đồng Đông Sơn đều theo chiều ngược kim đồng hồ. Điều
này hoàn toàn phù hợp với quan điểm ở trên, cho rằng, thụy tướng Vạn vốn là tướng
của xoáy tóc trên đầu, xoáy lông ở ngực của Phật cũng như của các vị thần
Bà-la-môn.
Lịch
sử đã chứng minh Đức Phật (tên của Ngài là Gautama Siddattha) là một con người
có thật, là con của quốc vương Tịnh Phạn (Suddhodana) và vương phi Maya, thuộc
dòng họ Thích-ca (Sakya) ở nước Kapilavastu. Do đó, về mặt sinh học, các tướng
xoáy tóc trên đầu, xoáy lông ở ngực của Phật thì cũng phải giống như mọi con
người bình thường có dòng máu màu đỏ. Nghĩa là các tướng xoáy tóc trên đầu,
xoáy lông ở ngực của Phật đều có chiều xoáy về bên trái, nghịch chiều kim đồng
hồ.
Ở
Việt Nam tướng Vạn rất phổ biến không chỉ trên ngực tượng Phật mà còn được dùng
để trang trí trên các mặt tiền ngôi chùa. Trong cuốn Việt Nam danh lam cổ tự của
Võ Văn Tường có tới 21 hình chữ Vạn. Trong đó, tướng Vạn ngược chiều kim đồng hồ
chiếm số lượng áp đảo 19/21, duy chỉ có 2 tướng Vạn thuận chiều kim đồng hồ.
Vì
thế, nếu chấp nhận những thông tin trên thì tướng Vạn có hướng xoay về bên
trái, ngược chiều kim đồng hồ mà Phật giáo Việt Nam sử dụng là có cơ sở tự
nhiên, là hợp lý. Xin đừng vì hình tượng Trung Hoa mà tự ti về mình, vì hiện
nay có rất nhiều tượng Phật được tạc ở, hoặc có nguồn gốc từ, Trung Quốc và Đài
Loan rồi nhập vào Việt Nam; hoặc có nguồn gốc từ hai quốc gia này, với biểu tượng
Vạn trên ngực có hướng xoay bên phải, thuận chiều kim đồng hồ.
4. Ký hiệu trên đảng kỳ của Đức Quốc xã
Đảng
Quốc xã Đức, dưới sự lãnh đạo của Hitler, tham vọng thống lĩnh thế giới, tự tôn
dân tộc mình lên hàng thượng đẳng, cho rằng mình là hậu duệ chính thống của chủng
tộc Aryan, một chủng tộc được xem là ưu tú nhất của thời cổ đại. Theo Bách khoa
toàn thư năm 1976 của Mỹ thì vào khoảng 1500 năm trước Tây lịch, người Aryan đã
xâm chiếm vùng Tây bắc Ấn Độ rồi định cư tại đó và dần dần trở thành dân tộc chủ
thể của Ấn Độ.
Một
nhánh khác của chủng tộc này đã di cư sang xâm chiếm Châu Âu và truyền bá ngôn
ngữ của họ ở đây. Ở những nơi nào có dấu chân của chủng người Aryan thì đều có
sự hiện diện của phù hiệu chữ Vạn. Vì vậy, không có gì phải ngạc nhiên khi Đảng
Quốc xã Đức dùng chữ Vạn làm phù hiệu trên đảng kỳ của mình6.
Người
phương Tây gọi đảng kỳ của Đức Quốc xã là chữ “thập ngoặc”(croix- briscoe). Đảng
Quốc xã Đức dùng hai chữ “S” tức là hai chữ đầu của hai từ “State” (quốc gia)
và “Social” (xã hội) đặt chéo nhau ở góc độ nghiêngchu-van alàm ký hiệu trên đảng
kỳ và chỉ xuất hiện từ thập niên 30, 40 của thế kỷ XX7. Một thuyết khác cũng
cho rằng ký hiệu trên đảng kỳ của Đức Quốc xã Hitler có nguồn gốc từ mẫu tự
La-tinh, nhưng không phải ngôn ngữ Anh mà là ngôn ngữ Đức, đó là
“Schutzstaffel” đọc tắt là SS (chỉ quân đội của Đức Quốc xã) mà Hitler lúc đó rất
coi trọng quân đội này. Một lần viết thư tay, viết tắt chữ này ngẫu nhiên
Hitler đã viết lại 2 chữ “S” giao nhau, thế là thành hình . chu-van a
Bản
thân Hitler cũng cảm thấy phù hiệu này có một ý nghĩa thần bí mà không nói ra
được nên khi Hitler lên nắm quyền đã lấy nó làm đảng kỳ cho Đức Quốc xã8. Như vậy
qua những thuyết trên, có thể khẳng định rằng phù hiệu mà Đức Quốc xã sử dụng
là hình giống tướng chu-van aVạn ngược chiều kim đồng hồ nhưng nó đặt trong
hình thoi, có dạng nghiêng. Trong khi đó, tướng Vạncủa Phật giáo nằm cân đối
trong khung hình vuông .
Vì
cả hai đều có hướng xoay về bên trái, ngược chiều kim đồng hồ nên để phân biệt
giữa hai biểu tượng này người ta gọi biểu tượng của Phật giáo là tướng Vạn hay
chữ Vạn, còn ký hiệu của Đức Quốc xã là dấu “thập ngoặc”. Ngoài ra, cũng có thể
phân biệt chúng qua màu sắc. Dấu “thập ngoặc” là màu đen trên nền trắng.
Còn
theo văn hóa của Ấn Độ thì thụy tướng của Đấng Giác Ngộ mà các nhà tạc tượng Phật
giáo áp dụng trang sức trước ngực kim thân Đức Phật, thông thường họ dùng màu
vàng kim cho biểu tượng này. Màu vàng là màu tôn quý, biểu trưng cho sự đoan
trang mang đến vinh hoa, kiết tường. Trong Ngũ hành thì màu vàng là màu biểu
trưng cho hành thổ, màu của trung ương, là màu của đế vương. Hơn nữa, khi nhìn
vào tướng Vạn làm cho người ta dễ sanh tâm hoan hỷ và tôn quý, còn khi nhìn đến
dấu “thập ngoặc” lại khiến cho người ta nhớ lại một quá khứ rùng rợn.
5.
Biểu tượng Vạn trong tâm thức của tín đồ
Phật giáo Việt Nam
Cùng
với giáo lý, các biểu tượng của Phật giáo đã được các nhà truyền giáo mang đến
nhiều quốc độ khắp Đông Tây. Đối với biểu tượng Vạn, tín đồ ở nhiều nước cũng đều
hết sức tôn trọng, xem như vật thiêng của tôn giáo mình. Phật giáo đồ Việt Nam
chúng ta cũng rất mực sùng kính, nếu trong điều kiện không có tượng Phật, tín đồ
có thể dùng biểu tượng Vạn để thờ với lòng kính ngưỡng của mình. Tuy nhiên, họ
không đẩy sự sùng tín đó đi quá xa đến mức thần thánh hóa biểu tượng. Vì thế,
biểu tượng còn là vật dùng để trang trí ở các bộ phận kiến trúc của chùa, tháp
Phật.
Biểu
tượng Vạn, ngoài là vật dùng để trang trí phổ biến ở chùa tháp Phật giáo, nó
còn được dùng rất nhiều trong nghệ thuật trang trí của người Việt Nam, trên các
bức chạm trổ và điêu khắc bằng gỗ hay kim loại, trang trí bàn ghế, tủ và các đồ
dùng nội thất: tứ bình, diềm cửa, tủ thờ, viền các câu đối, v.v ….
Hơn
nữa, những người phụ nữ của dân tộc Mán hiện đang sống trên các đỉnh núi Ba Vì ở
hai bên bờ sông Đáy, thường sống tập trung thành các cụm dân cư rải rác trên khắp
vùng thượng du miền Bắc. Họ thường mặc những bộ quần áo bằng vải thô màu xanh
dương có mang hằng dải dài những chữ Vạn thêu màu đỏ hay trắng9.
Đây
mới là điều kỳ lạ mà chúng ta không khỏi thắc mắc, liệu những phụ nữ người Mán
dùng ký hiệu Vạn làm hoa văn cho trang phục của mình có liên quan gì đến tín
ngưỡng, tôn giáo không? Trong công nghệ bao bì thực phẩm hiện nay, chúng ta
cũng dễ dàng bắt gặp biểu tượng Vạn này. Ngoài niềm tin là“bùa” may mắn của sản
phẩm, người ta đã thấy được sự tinh tế ở ký hiệu này. Vì thế mà họ đã sử dụng
nó để in trên bao bì thực phẩm, làm cho bao bì đẹp hơn, bắt mắt hơn và tạo nên
tính đặc thù cho sản phẩm của mình.
Tóm
lại, thứ nhất, biểu tượng Vạn vốn là biểu tượng văn hóa, không phải là văn tự,
có từ thời xa xưa của chủng người Aryan nói chung và người Ấn Độ nói riêng. Với
tính chất tốt lành, cao quý nên biểu tượng Vạn được nhiều tôn giáo cổ Ấn Độ
dùng làm thụy tướng cho các vị thần của mình. Đến khi Phật giáo ra đời, Phật
giáo đã tiếp thu nét tinh hoa truyền thống văn hóa của dân tộc Ấn Độ, trong đó
có biểu tượng Vạn, đồng thời Phật giáo là tôn giáo hòa bình và đạo đức đã hợp
duyên với biểu tượng Vạn với tính chất tốt lành và cao quý nên người đời đã
dành riêng biểu tượng Vạn cho Phật giáo. Vì vậy, hiện nay hễ nói đến biểu tượng
Vạn là người ta nghĩ ngay đến Phật giáo.
Thứ
hai, biểu tượng Vạn vốn là những hình xoáy của tóc, lông; là tướng tốt tự nhiên
trên sắc thân của các vị thần linh của Bà-la-môn giáo cũng như Đức Phật, vì thế
xin đừng thần thánh hóa hay đặt để tướng Vạn vào các học thuyết Âm dương, Ngũ
hành để dẫn đến những suy luận lệch lạc như tướng Vạn quay theo chiều kim đồng
hồ thì cùng chiều tương sinh của Ngũ Hành, mới đem lại sự an lạc, công đức viên
mãn, cát tường; còn nếu quay ngược với chiều tương sinh của Ngũ Hành thì nó
thiêu hủy hết công đức; những suy luận đó chỉ đem lại phiền não, rất nguy hại.
Thứ
ba, biểu tượng Vạn tuy có chiều xoay về bên trái, nghịch chiều kim đồng hồ giống
với dấu“thập ngoặc”trên đảng kỳ Đức Quốc xã của Hitler giống với của Phật giáo
nói chung và của Phật giáo Việt Nam nói riêng, nhưng hoàn toàn không giống nhau
về hình dáng cũng như màu sắc. ■
Title: | Biểu tượng "Vạn" của Phật giáo |
Authors: | Nguyễn, Văn Thoàn |
Keywords: | Phật giáo Vạn Biểu tượng |
Issue Date: | 2007 |
Publisher: | Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo |
Series/Report no.: | Số 5; |
Description: | Tr. 61-69 |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19071 |
Appears in Collections: | Nghiên cứu Phật học và Phật hoàng Trần Nhân Tông (LIC) |
Nhận xét
Đăng nhận xét