Tìm hiểu kỹ thuật đúc trống đồng Ngọc Lũ
Ở
mỗi dân tộc, trong buổi bình minh lịch sử của mình thường được đánh dấu bằng một
công trình xây dựng kỳ diệu, như những kim tự tháp đồ sộ của Ai Cập cổ, hoặc một
vật tiêu biểu như tượng thần Dớt ở Olympia của Hy Lạp cổ. Trong thời kỳ hình
thành và phát triển của nền văn minh Việt cổ, dân tộc ta đã có một loại di vật
tiêu biểu tượng trưng xứng đáng của mình.
Đó
là trống đồng. Là sản phẩm của thời kỳ cực thịnh của Nhà nước Văn Lang, trống đồng
đã đi vào lịch sử nước ta như một kỳ công tuyệt diệu. Cái tên trống đồng Ngọc
Lũ với hình dáng cân đối hài hòa, phủ kín mình những hoa văn đẹp nhất, đã từ
lâu rồi, không chỉ rất quen biết, thân thiết với chúng ta, mà còn rất nổi tiếng
trên thế giới.
Trống
đồng Ngọc Lũ có niên đại 2.500 năm cách ngày nay, được xếp vào loại H1 - Heger
(theo sự phân loại dựa trên 165 chiếc trống đồng được biết đến thời điểm ấy của
học giả F.Héger - người Áo - vào năm 1902), H1 là “loại cổ nhất, cơ bản nhất và
từ loại này mà các loại khác ra đời”. Ngọc Lũ là một trong số không nhiều trống
đồng giữ vai trò ấy.
Trống
có patin màu xanh ngả xám, đường kính mặt 79,3cm, cao 63cm, nặng 86kg, thuộc loại
kích thước lớn. Mặt trống đúc liền chờm ra khỏi tang. Tang trống nở phình, thân
trống hình trụ đứng, chân trống hình nón cụt hơi choãi. Mặt trống chính giữa
đúc nổi ngôi sao 14 cánh bao quanh một mặt tròn nổi, chính là núm để đánh trống.
Xen giữa các cánh sao là những họa tiết hình lông công. Bao quanh ngôi sao là
16 vành hoa văn. Vành 1, 5, 11 và 16: Những hàng chấm nhỏ. Vành 2, 4, 7, 9, 13
và 14: Những vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến. Vành 3: Những hàng chữ ∫ gẫy
khúc nối tiếp. Vành 12 và 16: Văn răng cưa. Vành 6, 8 và 10: Hình người và động
vật đi quanh ngôi sao theo hướng ngược chiều kim đồng hồ. Trong đó là các nhóm:
Người mặc áo lông chim đang nhảy múa, người giã gạo chày đôi, người đánh trống,
nhà sàn mái cong, hươu đang đi cùng chim mỏ ngắn bay và chim mỏ dài đứng.
Tang
trống chính là chiếc hộp cộng hưởng khuếch đại âm thanh. Phần trên có 6 vành
hoa văn hình học. Vành 1 và 6: Những đường chấm nhỏ thẳng hàng. Vành 2 và 5:
Văn răng cưa. Vành 3 và 4: Hoa văn vòng tròn đồng tâm chấm giữa nối với nhau bằng
những tiếp tuyến song song. Phần dưới là 6 chiếc thuyền chuyển động từ trái
sang phải, chở chiến binh tay cầm vũ khí và tù binh, xen giữa là những hình
chim cò ngậm cá, chó săn được thể hiện theo lối cách điệu. Gắn giữa tang và
thân trống là hai đôi quai kép đúc nổi hoa văn bông lúa, đối xứng nhau.
Thân
trống hình trụ đứng, là bộ phận nắn âm thanh. Phần giữa của thân có những hoa
văn hình học chạy song song cắt nhau tạo thành 6 ô hình chữ nhật. Trong ô là
các võ sĩ đầu đội mũ lông chim, tay cầm vũ khí vừa đi vừa múa. Phần dưới của
thân là ba vành hoa văn hình học, giữa là vành văn vòng tròn chấm giữa có tiếp
tuyến. Hai bên là hai đường chấm nhỏ. Ngoài cùng là hai đường chỉ trơn.
Chân
trống nở choãi hình nón cụt là cửa mở để âm thanh của trống thoát ra và tỏa rộng
nhanh chóng, không trang trí. Rìa mặt trống có vết lõm nhỏ, đó là dấu vết của
những con kê để lại khi đúc trống.
Tên
của Ngọc Lũ – chiếc trống Đông Sơn cổ nhất, đẹp nhất và còn nguyên vẹn này - vốn
không phải địa danh của nơi phát hiện như người ta thường nghĩ với các chiếc trống
khác. Trong “Quản lý văn vật”, tháng 12 năm 1965 (Nội san của Vụ Bảo tồn bảo
tàng) Trần Huy Bá cho biết: Theo lời cụ Nguyễn Đăng Lập (85 tuổi) - người xã Ngọc
Lũ - vào khoảng năm 1893 - 1894, các ông Nguyễn Văn Y, Nguyễn Văn Túc và một số
người khác đắp đê ở xã Như Trác, huyện Nam Xang (nay là Lý Nhân) hữu ngạn sông
Hồng. Khi đào ở bãi cát bồi thì thấy ở dưới độ sâu 2 mét lộ ra một vật bằng đồng
rất lớn, các ông vội lấp đất rồi đến đêm mới kéo ra đào thì thấy một trống đồng,
các ông khiêng về cúng vào đình làng Ngọc Lũ. Sau 7 - 8 năm, một họa sĩ người
Pháp đến vẽ tại đình thấy trống liền báo cho Công sứ Hà Nam. Nhân có cuộc đấu xảo
ngày 15.11.1902 ở Hà Nội, trống được Trường Viễn Đông Bác Cổ mua lại với giá
550 đồng.
Trong
tạp chí Khảo cổ học năm 1974, chi tiết về xuất xứ của Ngọc Lũ có khác một chút
khi cho rằng người dân đã cúng trống vào chùa Long Đọi Sơn chứ không phải đình
làng, cũng thuộc xã Ngọc Lũ, cách nơi phát hiện 30km về phía đông bắc. Chỉ những
khi có lễ cúng mới mang trống ra đánh, còn ngày thường để ở hậu cung. Từ năm
1958 đến nay, trống đồng Ngọc Lũ luôn được lưu giữ, trưng bày tại hệ thống
trưng bày chính của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Đã có ý kiến đề nghị đổi tên
thành Như Trác cho tiêu bản trống đẹp và tiêu biểu nhất này, song trống đã nổi
tiếng từ lâu với tên Ngọc Lũ, và một sự thay tên như thế cũng không cần thiết,
về mặt khoa học.
Trống
đồng Ngọc Lũ thuộc sưu tập trống đồng Đông Sơn là đại diện loại hình hiện vật
tiêu biểu nhất của nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng trong khu vực Đông Nam Á.
Trong hàng ngàn chiếc trống được phát hiện từ trước đến nay (không hề có chiếc
nào giống nhau hoàn toàn), trống đồng Ngọc Lũ vẫn là chiếc trống có kiểu dáng
và kích thước hài hòa nhất, trang trí hoàn mỹ và phong phú nhất.
Mời
các bạn tìm hiểu bài viết cùng chủ đề “Tìm hiểu kỹ thuật đúc trống đồng Ngọc Lũ”
của tác giả Hoàng Văn Khoán tại đường link http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/22756
Nhận xét
Đăng nhận xét